Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ và quá trình số hóa hệ thống tài chính – ngân hàng, hình thức chuyển khoản thanh toán đã và đang trở thành phương tiện giao dịch chủ yếu trong cả lĩnh vực kinh doanh lẫn đời sống dân sự. Với những ưu điểm vượt trội như tính tiện lợi, nhanh chóng, an toàn và khả năng kiểm soát dòng tiền hiệu quả, chuyển khoản không chỉ giúp các cá nhân, tổ chức thực hiện nghĩa vụ thanh toán một cách dễ dàng mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch trong các giao dịch kinh tế. Hiện nay, nhiều người băn khoăn không biết liệu theo quy định hiện nay, “Quy định về chuyển khoản thanh toán như thế nào?”. Mời bạn đọc cùng dõi theo bài viết dưới đây của Tìm Luật để được giải đáp.
Các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt theo Nghị định 52/2024/NĐ-CP
Trong bối cảnh các giao dịch không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là hình thức chuyển khoản qua ngân hàng, việc nắm rõ các quy định liên quan đến chuyển khoản thanh toán là điều vô cùng quan trọng đối với cả cá nhân và tổ chức. Không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho dòng tiền, tuân thủ đúng quy định còn giúp hạn chế các rủi ro pháp lý và tránh những tranh chấp phát sinh trong quá trình giao dịch. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ các quy định cốt lõi liên quan đến chuyển khoản thanh toán, từ khung pháp lý cho đến các lưu ý trong thực tiễn, để có thể chủ động thực hiện giao dịch một cách an toàn, hiệu quả và hợp lệ.
Cụ thể, theo Điều 3 Nghị định 52/2024/NĐ-CP thì các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt bao gồm những dịch vụ sau đây:
– Dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán của khách hàng: Là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng.
– Dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng: Là việc cung ứng dịch vụ thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán không thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng, cụ thể bao gồm việc thực hiện các dịch vụ thanh toán: chuyển tiền, thu hộ, chi hộ; và các dịch vụ thanh toán khác không qua tài khoản thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Cũng theo Điều 3 Nghị định 52/2024/NĐ-CP thì tổ chức cung ứng những dịch vụ này là:
– Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
– Ngân hàng;
– Chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
– Quỹ tín dụng nhân dân,
– Tổ chức tài chính vi mô và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích.
Như vậy, theo quy định tại Nghị định 52/2024/NĐ-CP thì có 02 dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt là: Dịch vụ thanh toán qua tài khoản thanh toán của khách hàng và Dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng.
Những dịch vụ này sẽ do Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích cung cấp (có thể là cung cấp một hoặc một số dịch vụ thanh toán).

Quy định về chuyển khoản thanh toán như thế nào?
Chuyển khoản thanh toán là một trong những phương thức thanh toán phổ biến và thiết yếu trong hoạt động tài chính – ngân hàng hiện nay. Từ giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp đến các khoản chi tiêu thường nhật của cá nhân, hình thức chuyển khoản không chỉ giúp tiết kiệm thời gian mà còn đảm bảo tính minh bạch, chính xác và dễ dàng kiểm soát dòng tiền. Tuy nhiên, do liên quan trực tiếp đến tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, việc chuyển khoản cần phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định của pháp luật và các quy trình nghiệp vụ do tổ chức tín dụng ban hành.
Nghị định số 52/2024/NĐ-CP là văn bản pháp lý quan trọng về thanh toán không dùng tiền mặt, có ảnh hưởng rộng đến nhiều lĩnh vực, đối tượng, tổ chức, cá nhân liên quan; góp phần tạo lập khuôn khổ pháp lý cơ bản, vững chắc cho hoạt thanh toán không dùng tiền mặt, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, tạo thuận lợi cho chuyển đổi số ngành ngân hàng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới, tiện ích, an toàn với chi phí hợp lý.
Bổ sung quy định về tiền điện tử, thanh toán quốc tế
Nghị định số 52/2024/NĐ-CP bổ sung quy định về tiền điện tử (e-money), trong đó định nghĩa, làm rõ bản chất của tiền điện tử (Điều 3); quy định cụ thể các hình thức thể hiện của tiền điện tử được sử dụng trong hoạt động thanh toán bao gồm ví điện tử, thẻ trả trước (Điều 6); đối tượng cung ứng tiền điện tử bao gồm: ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (cung ứng dịch vụ ví điện tử và thẻ trả trước) và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (cung ứng dịch vụ ví điện tử liên kết với tài khoản thanh toán của khách hàng mở tại ngân hàng).
Việc hoàn thiện quy định pháp lý cho tiền điện tử sẽ góp phần ngăn ngừa, loại trừ các phương tiện thanh toán không hợp pháp do các tổ chức không được phép phát hành, hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền trong việc ngăn ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền điện tử (theo Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017).
Nghị định cũng bổ sung quy định về thanh toán quốc tế để làm rõ khái niệm thanh toán quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế (Điều 3); vai trò quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đối với thanh toán quốc tế (Điều 4); quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài, thực hiện dịch vụ chuyển mạch tài chính quốc tế (Điều 5); quy định việc chấp thuận tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và điều kiện để được chấp thuận (Điều 5, Điều 21); quy định về việc các bên liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và đáp ứng các yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật Việt Nam nhằm quản lý các luồng giao dịch xuyên biên giới (Điều 5).
Quy định về thanh toán quốc tế nhằm nâng cao vai trò quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh toán quốc tế và đẩy mạnh các mô hình hợp tác cung ứng dịch vụ thanh toán xuyên biên giới trong bối cảnh phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo cũng như hỗ trợ thanh toán đối với thương mại điện tử ngày càng gia tăng.
Sửa đổi, bổ sung quy định về mở và sử dụng tài khoản thanh toán
Nghị định số 52/2024/NĐ-CP quy định việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán của khách hàng tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện theo quy định của NHNN và quy định của pháp luật liên quan.
Về sử dụng và ủy quyền sử dụng tài khoản thanh toán, Nghị định nêu rõ chủ tài khoản thanh toán được sử dụng tài khoản thanh toán của mình để nộp, rút tiền mặt và yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện các giao dịch thanh toán hợp lệ. Chủ tài khoản thanh toán có quyền yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin về giao dịch và số dư trên tài khoản thanh toán của mình theo thỏa thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi mở tài khoản thanh toán.
Chủ tài khoản thanh toán có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực và tuân thủ các quy định về mở, sử dụng, ủy quyền trong sử dụng tài khoản thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và phải đảm bảo có đủ tiền (số dư Có) trên tài khoản thanh toán để thực hiện lệnh thanh toán đã lập, trừ trường hợp có thỏa thuận cho vay thấu chi với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Theo Nghị định, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ, kịp thời lệnh thanh toán hợp lệ của chủ tài khoản thanh toán.
Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có quyền từ chối thực hiện lệnh thanh toán của chủ tài khoản thanh toán khi lệnh thanh toán không hợp lệ hoặc có cơ sở pháp lý để xác định chủ tài khoản vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định tại Điều 8 Nghị định này hoặc khi tài khoản thanh toán không đủ tiền trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp từ chối thực hiện lệnh thanh toán của chủ tài khoản thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải thông báo lý do từ chối cho chủ tài khoản thanh toán.
Nghị định nêu rõ, tài khoản thanh toán sẽ bị phong tỏa một phần hoặc toàn bộ số dư trên tài khoản thanh toán trong 4 trường hợp gồm: Theo thỏa thuận trước giữa chủ tài khoản thanh toán và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc theo yêu cầu của chủ tài khoản; Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Khi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát hiện có nhầm lẫn, sai sót khi ghi Có nhầm vào tài khoản thanh toán của khách hàng hoặc thực hiện theo yêu cầu hoàn trả lại tiền của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chuyển tiền do có nhầm lẫn, sai sót so với lệnh thanh toán của bên chuyển tiền sau khi ghi Có vào tài khoản thanh toán của khách hàng. Số tiền bị phong tỏa trên tài khoản thanh toán không được vượt quá số tiền bị nhầm lẫn, sai sót; Khi có yêu cầu phong tỏa của một trong các chủ tài khoản thanh toán chung trừ trường hợp có thỏa thuận trước bằng văn bản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và các chủ tài khoản thanh toán chung.
Việc chấm dứt phong tỏa tài khoản thanh toán được thực hiện theo thỏa thuận bằng văn bản giữa chủ tài khoản thanh toán và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; khi có quyết định chấm dứt phong tỏa của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; đã xử lý xong sai sót, nhầm lẫn trong thanh toán chuyển tiền quy định tại điểm 3 ở trên; khi có yêu cầu chấm dứt phong tỏa của tất cả các chủ tài khoản thanh toán chung hoặc theo thỏa thuận trước bằng văn bản giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và các chủ tài khoản thanh toán chung.
Theo Nghị định, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, chủ tài khoản thanh toán và cơ quan có thẩm quyền nếu thực hiện hoặc yêu cầu thực hiện phong tỏa tài khoản thanh toán trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ tài khoản thanh toán thì chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Nghị định số 52 cũng quy định rõ việc đóng tài khoản thanh toán được thực hiện khi: Chủ tài khoản thanh toán có yêu cầu và đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến tài khoản thanh toán; Chủ tài khoản thanh toán là cá nhân bị chết, bị tuyên bố đã chết; Tổ chức có tài khoản thanh toán chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật; Chủ tài khoản thanh toán vi phạm hành vi bị cấm về tài khoản thanh toán quy định tại khoản 5, khoản 8 Điều 8 Nghị định 52/2024/NĐ-CP; Các trường hợp theo thỏa thuận trước bằng văn bản giữa chủ tài khoản thanh toán với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Khi tài khoản bị đóng mà vẫn còn số dư, Nghị định quy định chi trả theo yêu cầu của chủ tài khoản thanh toán hoặc được thực hiện theo thỏa thuận trước giữa chủ tài khoản thanh toán và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; trường hợp chủ tài khoản là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, việc chi trả thực hiện theo yêu cầu người đại diện theo pháp luật, người giám hộ phù hợp với quy định pháp luật dân sự; hoặc chi trả cho người thừa kế, đại diện thừ kế hợp pháp trong trường hợp chủ tài khoản thanh toán là cá nhân bị chết, bị tuyên bố đã chết.

Ngoài ra, chi trả theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; xử lý theo quy định của pháp luật đối với trường hợp mà người thụ hưởng hợp pháp số dư trên tài khoản thanh toán đã được thông báo mà không đến nhận.
Nghị định cũng quy định cụ thể việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán của NHNN; việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; quy định về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua tài khoản thanh toán của khách hàng, không qua tài khoản thanh toán của khách hàng; quy định về tham gia hệ thống thanh toán quốc tế; dịch vụ trung gian thanh toán…
Nghị định 52 bổ sung quy định về dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng để phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và Luật Đầu tư năm 2020, trong đó quy định cụ thể phạm vi các chủ thể được cung ứng (gồm ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích); quy định điều kiện và hồ sơ, quy trình, thủ tục để được NHNN chấp thuận, thu hồi văn bản về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích.
Hồ sơ đề nghị chấp thuận cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số và sự gia tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử, việc đa dạng hóa hình thức thanh toán trở thành xu hướng tất yếu nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và hỗ trợ tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Một trong những dịch vụ ngày càng được quan tâm là dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng, cho phép các tổ chức trung gian thanh toán, ví điện tử hoặc các đơn vị công nghệ tài chính (Fintech) cung cấp giải pháp thanh toán tiện lợi mà không yêu cầu người dùng phải mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
Hồ sơ đề nghị chấp thuận cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng được quy định tại Điều 20 Nghị định 52/2024/NĐ-CP, cụ thể gồm những giấy tờ sau:
– Đơn đề nghị cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị định 52/2024/NĐ-CP;
– Nghị quyết của Hội đồng thành viên, văn bản của người đại diện có thẩm quyền của chủ sở hữu phù hợp với thẩm quyền quy định tại Điều lệ công ty về việc thông qua Bản thuyết minh điều kiện cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng;
– Bản thuyết minh các điều kiện cung ứng dịch vụ thanh toán không qua tài khoản thanh toán của khách hàng theo quy định tại Điều 19 Nghị định 52/2024/NĐ-CP;
– Hồ sơ về nhân sự, gồm có: Sơ yếu lý lịch, bản sao có chứng thực hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc hoặc bản sao kèm xuất trình bản chính để đối chiếu các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của những người đại diện theo pháp luật, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Người phụ trách và các cán bộ chủ chốt thực hiện cung ứng dịch vụ này;
– Giấy phép thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ có giá trị tương đương do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, Điều lệ công ty (bản sao có chứng thực hoặc bản sao được cấp từ số gốc hoặc bản sao kèm xuất trình bản chính để đối chiếu).
Khi nộp hồ sơ, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích cần gửi 03 bộ hồ sơ qua đường bưu điện (dịch vụ bưu chính) hoặc nộp trực tiếp tới Bộ phận Một cửa Ngân hàng Nhà nước hoặc nộp trực tuyến tại cổng dịch vụ công Ngân hàng Nhà nước/cổng dịch vụ công quốc gia và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các thông tin cung cấp.
Thông tin liên hệ
Trên đây là bài viết giải đáp thắc mắc về vấn đề ”Quy định về chuyển khoản thanh toán như thế nào?”. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Mọi thắc mắc, vướng mắc xin vui lòng gửi đến timluat để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời.
Câu hỏi thường gặp
Hàng hóa trên 5 triệu đồng từ 01/7/2025 phải chuyển khoản mới được khấu trừ thuế GTGT theo đề xuất mới nhất?
Theo đề xuất mới tại Dự thảo Nghị định thì các hàng, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ 05 triệu đồng trở lên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt để khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt gồm hình thức thanh toán nào?
Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản của bên bán mở tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán sau:
– Séc
– Ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu,
– Thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng,
– Sim điện thoại (ví điện tử)
– Các hình thức thanh toán khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài khoản bên bán)