Quy định xử phạt khi chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu

104
Quy định xử phạt khi chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu

Tài sản được xem như một nguồn lực có giá trị về mặt kinh tế to lớn do chủ thể có thể là một cá nhân, tập đoàn hay quốc gia sở hữu và kiểm soát. Tài sản đều có những ý nghĩa quan trọng nó có thể đem đến cho con người nhiều nguồn lợi ích. Cũng chính vì tài sản là loại quan trọng đối với mỗi người, hiện nay, những hành vi cấu thành tội chiếm đoạt tài sản diễn ra ngày càng nhiều với thủ đoạn tinh vi đã gây ra nhiều hệ quả cho con người. Xin mời các bạn độc giả cùng tìm hiểu qua bài viết của Tìm luật để hiểu và nắm rõ được những quy định về Chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu có thể giúp các bạn độc giả hiểu sâu hơn về pháp luật.

Căn cứ pháp lý

  • Bộ luatah Hình sự 2015

Khái niệm tội chiếm đoạt tài sản

Chiếm đoạt là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất hẳn tài sản (mất khả năng thực tế thực hiện quyền sở hữu của mình) vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó (có khả năng thực tế thực hiện việc chiếm hữu, việc sử dụng và việc định đoạt tài sản).

Hành vi chiếm đoạt tài sản được xem là bắt đầu từ lúc người thực hiện hành vi này tạo ra tình trạng mất khả năng chiếm hữu của chủ sở hữu tài sản, nhằm mục đích tạo cơ hội cho chính bản thân họ. Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành khi người thực hiện hành vi đã đạt được quyền sở hữu tài sản bị chiếm đoạt (đã thực sự chiếm đoạt được tài sản đó).

Cấu thành của tội chiếm đoạt tài sản

– Mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi khách quan

Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành động “chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối ở đây có thể được thể hiện bằng nhiều hành vi và cách thức khác nhau nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đối với tài sản bị chiếm đoạt để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội.

Tuy nhiên, hành vi dùng thủ đoạn gian dối chỉ là một phương thức mà người phạm tội sử dụng để thực hiện mục đích của họ, tức là “chiếm đoạt tài sản”. Điều này chỉ là cách để thực hiện mục tiêu của tội phạm, và không phải là hành vi khách quan chính của tội danh. Đối với loại tội này, hành vi chiếm đoạt mới là yếu tố quan trọng của hành vi phạm tội.

Một điểm cần lưu ý là đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn gian dối của người phạm tội luôn luôn phải có trước khi người bị hại giao tài sản cho người phạm tội. Nếu thủ đoạn gian dối được thực hiện sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A là bảo vệ làm việc tại Công an phường X. Sau khi biết thông tin B bị tạm giữ do hành vi đánh nhau dẫn đến chết người, A đã chủ động liên hệ với gia đình B tự nhận mình là cán bộ công an đang làm việc tại Công an phường X và hứa sẽ giúp B không bị kết án nếu gia đình B đưa cho A 50.000.000 đồng. Vì lo lắng con mình phải ngồi tù nên gia đình B đã tin tưởng và đưa tiền cho A. Sau khi nhận được tiền, A đã bỏ trốn.

Trong trường hợp này, hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A thể hiện ở việc A đã lợi dụng tâm lý lo lắng của gia đình B để giả danh cán bộ công an nhằm chiếm đoạt khoản tiền 50.000.000 đồng.

Hậu quả

Mục đích của người phạm tội khi thực hiện hành vi gian dối là nhằm chiếm đoạt tài sản. Do đó, hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản. Có thể nói thiệt hại về tài sản là căn cứ để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Điều 174 luật hình sự quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 thì phải kèm theo các điều kiện mà Điều này quy định.

Các điều kiện đó bao gồm: đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp phải có thiệt hại về tài sản thì mới cấu thành tội phạm.

Đối với một số trường hợp, người phạm tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội nhưng không chiếm đoạt được tài sản đó thì vẫn có thể bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Các trường hợp này thường được áp dụng đối với các hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn như ô tô, máy tính xách tay,…

Ngoài ra, tại khoản 2, 3, 4 Điều 179 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định về các tình tiết tăng nặng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, hay lợi dụng thiên tai, dịch bệnh,… Theo đó, tùy từng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà người phạm tội sẽ bị xác định khung hình phạt phù hợp.

– Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tai sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật và tiền.

Điểm khác biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các tội khác như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.

Do đó, nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự các tội khác như tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.  

– Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

– Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản điều 174 luật hình sự cũng tương tự đối với các tội xâm phạm sở hữu khác, theo đó, cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi cá nhân đó có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến độ tuổi luật định được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.

Quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Bộ luật Hình sự 2015 đã có sự thay đổi so với Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (“Bộ luật Hình sự 1999”). Theo đó, Bộ luật Hình sự 1999 quy định: 

“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc  tội phạm  đặc biệt nghiêm trọng.”

Theo quy định trên Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.

Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự 2015 quy định đối với điều 174 luật hình sự tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chỉ người từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Xử phạt khi chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu

Quy định xử phạt khi chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xem như việc một người dùng mọi thủ đoạn gian dối, cố ý đưa ra những thông tin sai sự thật để có thể cho người đối diện mình tin và giao tài sản nhằm để chiếm đoạt tài sản đó một cách bất hợp pháp.

Người thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản trị giá từ 02 triệu đồng trở lên hoặc dưới 02 triệu nhưng thuộc một trong các trường hợp sau có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017:

– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;

– Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội: Cướp giật tài sản; Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Cưỡng đoạt tài sản; Trộm cắp tài sản… chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

– Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

Theo đó, hình phạt chính và hình phạt bổ sung với tội này như sau:

– Hình phạt chính:

Khung 01:

Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng – 03 năm trong trường hợp:

Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trị giá từ 02 triệu đồng – dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp nêu trên.

Khung 02:

Phạt tù từ 02 – 07 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:

+ Có tổ chức;

+ Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 50 – dưới 200 triệu đồng;

+ Tái phạm nguy hiểm;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt.

Khung 03:

Phạt tù từ 07 – 15 năm nếu thuộc một trong các trường hợp:

+ Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 200 – dưới 500 triệu đồng;

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung 04:

Phạt tù từ 12 – 20 năm hoặc tù chung thân:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên;

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

– Hình phạt bổ sung:

Bị phạt tiền từ 10 – 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Có thể thấy, tùy thuộc vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải chịu các mức phạt tù khác nhau. Với giá trị tài sản chiếm đoạt được từ 02 – dưới 50 triệu đồng, người phạm tội có thể lĩnh án tù đến 03 năm.

Mời các bạn xem thêm bài viết

Tìm luật đã cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề “Chiếm đoạt tài sản trên 2 triệu” Ngoài ra, chúng tôi  có hỗ trợ dịch vụ pháp lý khác liên quan đến mẫu sơ yếu lý lịch 2023 … Hãy tìm đến chúng tôi để được đội ngũ Luật sư, luật gia giàu kinh nghiệm tư vấn, hỗ trợ, đưa ra giải đáp cho quý khách hàng.

Câu hỏi thường gặp

Người dưới 18 tuổi khi trộm cắp tài sản bị xử lý như thế nào?

Đối với người dưới 18 tuổi khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì sẽ bị chịu xử lý như sau:
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, do đó, mọi hình phạt của Tội trộm cắp tài sản đều có thể áp dụng với người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Với người từ đủ 14 tuổi – dưới 16 tuổi thì chỉ phải chịu hình phạt tù trong trường hợp trộm cắp tài sản trên 200 triệu; lợi dụng thiên tai, dịch bệnh hoặc lợi dụng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp để trộm cắp tài sản.
Đồng thời, theo Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015, mức phạt tù có thời hạn áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản như sau:
– Người từ đủ 16 – dưới 18 tuổi: Mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định;
– Người từ đủ 14 – dưới 16 tuổi: Mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định.

Khi nào thì tội trộm cắp tài sản trở thành tội cướp tài sản?

Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, được thể hiện bởi một trong những hành vi sau: dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy có hai trường hợp để tội trộm cắp tài sản trở thành tội cướp taid sản đó là:
– Khi chưa chiếm đoạt được tài sản mà người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản
– Người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng do chủ tài sản hoặc người khác muốn giành lại tài sản từ tay người phạm tội mà người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản bằng được.
Trong hai trường hợp này, hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực để chiểm đoạt được tài sản của người phạm tội đã đủ yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản.

5/5 - (1 bình chọn)